Sau hơn 18 tháng chống dịch, thế giới đối mặt với rủi ro xuất hiện biến chủng mới dễ lây lan hơn. Dù vậy, tỷ lệ tiêm chủng vẫn là chìa khóa để trở về trạng thái bình thường.
Nhìn vào các loại virus trong quá khứ, chúng ta có thể biết được diễn biến của đại dịch hiện tại. Nhưng tới nay, các chuyên gia chưa thống nhất về nguy cơ mà biến chủng tương lai của Covid-19 sẽ tạo ra.
Đại đa số chuyên gia đồng ý rằng SARS-CoV-2 sẽ tiếp tục lây lan trong những năm tới, nhưng không có cách nào để biết trước cách virus sẽ tiến hóa cụ thể. Ngoài ra, không phải đột biến nào cũng nguy hiểm hoặc đáng lo ngại.
“Biến chủng SARS-CoV-2 chắc chắn sẽ xuất hiện, nhưng không phải mọi biến chủng đều có tác động tiêu cực tới sức khỏe cộng đồng”, Yvonne Su, giáo sư thuộc Chương trình Bệnh truyền nhiễm tiềm tàng của Đại học Quốc gia Singapore, nhận định. “Điều quan trọng là theo sát và đánh giá các biến chủng mới vì một trong số này có thể làm gia tăng rủi ro”.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tới nay đã xác định 4 biến chủng đáng lo ngại, bao gồm Delta với độ lây nhiễm cao khoảng gấp đôi chủng ban đầu phát hiện ở Vũ Hán, Trung Quốc.
Chủng Delta cũng là chủng thống trị toàn cầu và đã xuất hiện tại ít nhất 135 quốc gia từ khi được phát hiện ở Ấn Độ vào tháng 10/2020.
Tốc độ lây lan nhanh chóng của Delta làm dấy lên lo ngại về việc nới lỏng các biện pháp giới hạn chống dịch, đặc biệt ở những nơi theo đuổi “chiến lược 0 ca Covid” tại châu Á – Thái Bình Dương như Trung Quốc đại lục, Hong Kong, Australia, và New Zealand.
Hiệu quả vaccine
Có chứng cứ cho thấy so với chủng gốc, chủng Delta dễ lây lan hơn giữa những người đã chích ngừa. Nhưng chưa biến chủng nào được chứng minh là có thể khiến vaccine ngừa Covid-19 mất đi khả năng ngăn ngừa nhập viện và tử vong.
Tại Anh, nơi khoảng 75% người trưởng thành được tiêm chủng đầy đủ, số ca nhập viện và tử vong vì Covid-19 đã giảm xuống chỉ bằng một phần rất nhỏ so với mức đỉnh, dù mỗi ngày ở đây vẫn ghi nhận hàng chục nghìn ca mắc mới trong những tuần qua.
Theo dữ liệu từ Cơ quan Y tế Công cộng Anh (PHE), chỉ 512 người tiêm đủ 2 mũi phải nhập viện trong các ngày 19/7-2/8, so với mức trung bình gần 38.000 ca nhập viện/ngày của mức đỉnh tháng một.
Một số chuyên gia dự đoán rằng độ độc tính, hay còn gọi là mức độ nghiêm trọng, của SARS-CoV-2 có thể giảm dần theo thời gian, theo giả thuyết đánh đổi độ lây nhiễm – độc tính.
Được nhắc tới thường xuyên nhưng chưa đạt được sự ủng hộ rộng rãi, giả thuyết này cho rằng độ độc tính gia tăng sẽ đi đôi với độ lây nhiễm giảm sút. Nguyên nhân là việc giết chết vật chủ sẽ không giúp cho mầm bệnh lây lan.
Polly Roy, giáo sư virus học thuộc Trường Vệ sinh và Dược Nhiệt đới London (Anh), cho biết đa số virus biến đổi “từng bước theo hướng có lợi cho chính nó”, tức là không để mất vật chủ.
“Việc dự đoán con đường phát triển của virus là bất khả thi, nhưng đa số đại dịch trong quá khứ đều hụt hơi sau một vài năm”, bà Roy nói.
“Hầu hết biến chủng sẽ không có tác động lớn tới những loại vaccine hiện tại và sẽ bị khống chế… Vì thế, chúng ta không có lý do gì để lo sợ. Những thay đổi (của SARS-CoV-2) cho tới nay khá là nhỏ nên cấu trúc cơ bản của virus vẫn vậy. Chúng vẫn xâm nhập một loại tế bào và gây ra một loại bệnh ấy”.
Bài học từ quá khứ
Từ quá trình tiến hóa của một trong những loại virus corona gây ra cảm lạnh thông thường, một số nhà khoa học nhìn thấy các dấu hiệu được cho là sẽ hé lộ quỹ đạo tương lai của SARS-CoV-2.
Năm 2020, các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Leuven (Bỉ) xác định thời điểm virus corona OC43 bắt đầu lây từ gia súc sang người trùng với cùng giai đoạn xảy ra đại dịch trong năm 1889-1890. Điều này cho thấy OC43 có thể đứng đằng sau đợt bùng dịch toàn cầu khi ấy khiến ước tính một triệu người tử vong.
“Có khả năng là khi virus trở nên dễ lây lan hơn, nó cũng sẽ bớt nguy hiểm hơn”, Lawrence Young, nhà virus học thuộc Đại học Y Warwick, cho biết.
“Giữa virus cúm và virus corona cảm lạnh thông thường có nhiều điểm tương đồng: Khi mới bắt đầu lây nhiễm, virus lây từ động vật sang người và gây ra nhiều ca bệnh và tử vong. Nhưng khi virus lây lan và đột biến theo thời gian, nó cũng ít gây bệnh hơn. Đây có thể là điều đã xảy ra với virus corona cảm lạnh thường OC43”, ông Young nói.
Trong khi đó, một số chuyên gia khác lại cảnh báo về nguy cơ biến chủng mới xuất hiện có khả năng kháng những loại vaccine hiện có.
Trong bản khảo sát do tổ chức Liên minh Vaccine của người dân thực hiện vào tháng 3 đối với 77 nhà dịch tễ học cho thấy hơn 60% người tham gia tin rằng SARS-CoV-2 sẽ đột biến và làm vô hiệu hóa vaccine thế hệ đầu trong khoảng một năm.
Nikolaus Osterrieder, trưởng khoa Khoa học đời sống và Dược thú y của Cao đẳng Jockey Club, Đại học City tại Hong Kong (Trung Quốc), cho biết kinh nghiệm trong quá khứ cho thấy biến chủng mới sẽ dễ lây lan hơn và kháng vaccine.
“Nói đơn giản thì con virus không được lợi gì từ việc có độc tính lớn hơn. Nó chỉ ‘quan tâm’ tới việc sinh tồn và lây lan”, ông Osterrieder nói. “Do đó, virus sẽ không để tâm tới việc độc tính của nó sẽ tăng hay giảm, miễn là nó có thể lây lan hiệu quả. Nói chung là, (virus) có sự đánh đổi giữa độ độc tính và lây nhiễm, và nó sẽ đạt tới trạng thái cân bằng”.
Giáo sư Su thuộc Đại học Quốc gia Singapore cho rằng có ít chứng cứ để giả định độ độc tính của virus sẽ giảm dần.
Bà Su cũng chỉ ra rằng một số bệnh không còn ảnh hưởng xấu như trước có thể là kết quả của việc gia tăng miễn dịch do mắc bệnh hoặc tiêm chủng.
Vì thế, mấu chốt để trở về với trạng thái bình thường vẫn là tỷ lệ tiêm chủng cao, bà Su nhận định.
Quốc Đạt – Thế Hào
Theo: Cánh cò