Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới có tính đến tiếp cận dựa trên quyền con người khi xem xét việc thực hiện nghĩa vụ về thương mại, đầu tư của các quốc gia. Để tranh thủ tốt các cơ hội, hóa giải được các thách thức, cần phân tích, đánh giá tác động đa chiều của các quy định về quyền con người trong quá trình triển khai và thực thi Hiệp định.
Khái quát về CPTPP
Năm 2015, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã kết thúc quá trình đàm phán nhưng không thể có hiệu lực do năm 2017, Chính quyền Mỹ tuyên bố không tham gia. Trong bối cảnh đó, sau nhiều nỗ lực, ngày 9-3-2018, 11 quốc gia thành viên còn lại đã cùng ký kết CPTPP tại Chi-lê (1). Về cơ bản, CPTPP vẫn giữ hầu hết các điều khoản đã đàm phán trong TPP và bỏ qua 22 điều khoản được Mỹ thông qua trong khi các quốc gia khác lại không đồng thuận, đồng thời bổ sung hai phụ lục: Phụ lục về Danh mục 20 nghĩa vụ tạm hoãn thực thi của CPTPP và 4 nội dung cần đàm phán lại; Phụ lục về 7 điều liên quan đến những điểm kỹ thuật của Hiệp định mới. CPTPP cũng có thay đổi về điều kiện có hiệu lực của Hiệp định là cần ít nhất 6 quốc gia thành viên ký phê chuẩn thì Hiệp định sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày ký. Tháng 12-2018, CPTPP chính thức có hiệu lực đối với nhóm 6 nước đầu tiên hoàn tất thủ tục phê chuẩn là Mê-hi-cô, Nhật Bản, Xin-ga-po, Niu Di-lân, Ca-na-đa và Ố-xtrây-li-a. Hiệp định có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 14-01-2019.
Hiện nay, CPTPP là văn kiện thương mại có hiệu lực với khoảng 500 triệu dân ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương với giá trị đóng góp khoảng 14% GDP của thế giới và khoảng 15% thương mại toàn cầu. Mục tiêu chính của CPTPP là tăng cường hợp tác kinh tế cũng như các chính sách, quy định thương mại giữa các quốc gia, thông qua đó tiến tới xóa bỏ các loại thuế quan và rào cản thương mại đối với hàng hóa, dịch vụ xuất, nhập khẩu giữa các nước thành viên, nhằm tăng cường thương mại và đầu tư, thúc đẩy sáng kiến, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và lợi ích xã hội.
Ngoài việc sử dụng các phương pháp truyền thống đối với vấn đề thương mại của các FTA trước đây, CPTPP còn bao gồm các nội dung thương mại mới và các vấn đề mang tính xuyên suốt, như in-tơ-nét và nền kinh tế số, sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước trong đầu tư và thương mại quốc tế, khả năng của các doanh nghiệp nhỏ để tận dụng lợi thế của các hiệp định thương mại và các chủ đề khác.
Nếu như các hiệp định thương mại trước đây chỉ chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực, như mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, cắt giảm thuế quan, cơ chế giải quyết tranh chấp thì CPTPP có phạm vi điều chỉnh rộng hơn. CPTPP, một mặt, tiếp tục cụ thể hóa các quy định về thương mại, thuế quan; mặt khác, bổ sung nhiều quy định cho một số lĩnh vực phi thương mại mới, như đầu tư trực tiếp, tiêu chuẩn lao động, môi trường, phát triển bền vững…(2). Với những nội dung mới này, CPTPP được đánh giá là một FTA thế hệ mới có tham vọng, toàn diện và sâu rộng.
Quy định về quyền con người trong CPTPP
Một trong những điểm khác biệt của CPTPP so với các hiệp định thương mại truyền thống là sự mở rộng phạm vi điều chỉnh vượt ngoài các giới hạn thương mại, bao gồm cả một số vấn đề phi thương mại trong đó có những vấn đề liên quan đến quyền con người. Nội dung về quyền con người trong CPTPP vừa được thể hiện ở cách tiếp cận chung dựa trên các nguyên tắc cơ bản về quyền con người, vừa thông qua các điều, khoản, chương, mục cụ thể.
Ngay từ Lời nói đầu của CPTPP đã khẳng định, các quốc gia thành viên cam kết “đem lại tăng trưởng kinh tế và lợi ích xã hội, tạo ra những cơ hội mới cho người lao động và doanh nghiệp, góp phần nâng cao mức sống, lợi ích của người tiêu dùng, giảm nghèo và thúc đẩy tăng trưởng bền vững”. Đây cũng chính là mục tiêu về quyền con người mà Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đặt ra, đó là “thúc đẩy tiến bộ xã hội và xây dựng mức sống tốt hơn và tự do rộng rãi hơn”. Lời nói đầu của CPTPP khẳng định quyết tâm bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực lao động, cũng như tầm quan trọng của việc thúc đẩy các nguyên tắc về minh bạch, quản trị tốt và nhà nước pháp quyền, xóa bỏ hối lộ và tham nhũng trong thương mại và đầu tư. Bên cạnh đó, CPTPP đưa ra nhiều quy định trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến nghĩa vụ bảo đảm quyền con người đối với các quốc gia thành viên.
Sở hữu trí tuệ
Chương 18 đưa ra các quy định liên quan đến sở hữu trí tuệ, bao gồm bằng sáng chế, nhãn hiệu, bản quyền, thiết kế công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, bí mật thương mại, các hình thức sở hữu trí tuệ khác, thực thi quyền sở hữu trí tuệ cũng như các lĩnh vực mà các nước CPTPP đồng ý hợp tác.
Có hai khía cạnh liên quan đến quyền con người, đặc biệt là quyền về sức khỏe khi thực hiện quyền sở hữu trí tuệ, đó là sự cần thiết phải bảo vệ nền y tế công cộng và đặc biệt là quyền tiếp cận thuốc điều trị. CPTPP khẳng định thực hiện quyền sở hữu trí tuệ không được gây trở ngại cho việc thực hiện biện pháp để bảo vệ nền y tế công cộng của các quốc gia(3). Quốc gia cần thông qua biện pháp cần thiết khi xây dựng và sửa đổi chính sách, pháp luật của mình để thúc đẩy lợi ích công trong các lĩnh vực có liên quan đến sự phát triển kinh tế, xã hội và công nghệ. Cụ thể, theo Điều 18.6, việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ sẽ không ngăn cản các quốc gia thực hiện các biện pháp để bảo vệ nền y tế công cộng. Quốc gia có quyền quyết định về tình trạng khẩn cấp của nền y tế công cộng, đặc biệt là khi xảy ra tình trạng khủng hoảng liên quan đến các dịch bệnh và các đại dịch khác để đưa ra biện pháp bảo vệ nền y tế công cộng hợp lý.
Tuy nhiên, vẫn còn quan điểm lo ngại rằng, các quy định chặt chẽ về bảo vệ bằng sáng chế của CPTPP có thể hạn chế quyền tiếp cận thuốc của người dân ở các quốc gia nghèo vì các công ty dược có thể không cho phép sản xuất thuốc gốc giá rẻ hay quyền được tiếp cận các sản phẩm nông nghiệp, như hạt giống, phân bón cũng sẽ bị hạn chế nếu như CPTPP chấp nhận thời gian độc quyền sáng chế kéo dài(4).
Quyền lao động
Lời nói đầu của CPTPP khẳng định cam kết “bảo vệ và thực thi các quyền lao động, cải thiện điều kiện làm việc và mức sống, tăng cường hợp tác và năng lực của các bên về các vấn đề lao động”(5). CPTTP dành toàn bộ Chương 19 để quy định các cam kết liên quan đến lao động mà quốc gia thành viên cần thực hiện, như: 1- Quyền tự do hội họp và quyền thương lượng tập thể; 2- Xóa bỏ lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc; 3- Xóa bỏ lao động trẻ em và các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất: 4- Xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp. CPTPP kêu gọi các quốc gia tham gia thông qua quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ người lao động, như mức lương tối thiểu, giờ làm việc, sức khỏe và an toàn nghề nghiệp. Trong chương về lao động, các khía cạnh liên quan đến bảo vệ các quyền khác của người lao động cũng được đề cập, đó là thực thi pháp luật lao động, thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, đối thoại lao động…
Về thực chất, các quy định về quyền lao động trong CPTPP không phải là chuẩn mực hoàn toàn. Đây chính là các tiêu chuẩn đã được ghi nhận trong các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Công ước Quyền con người. Tuy nhiên, CPTPP là một trong những hiệp định thương mại đầu tiên đưa ra các quy định về quyền lao động.
Quyền về môi trường
Trong khuôn khổ của CPTPP, 11 thành viên cam kết thực thi có hiệu quả pháp luật về môi trường và không làm suy giảm hệ thống pháp luật của các quốc gia về môi trường nhằm khuyến khích thương mại và đầu tư. Cụ thể, Chương 20 của CPTPP đưa ra các quy định về thúc đẩy thương mại, bảo vệ môi trường và thực thi có hiệu quả pháp luật về môi trường, cũng như tăng cường năng lực của các bên để giải quyết các vấn đề môi trường liên quan đến thương mại, bao gồm cả thông qua hợp tác(6). Đặc biệt, CPTPP còn kêu gọi tăng cường hợp tác giữa các quốc gia thành viên để bảo vệ và bảo tồn môi trường và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, đóng góp vào phát triển bền vững. Các quy định của CPTPP cũng tập trung vào một số thách thức chung về môi trường đe dọa đến sức khỏe con người và đa dạng sinh học trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, như tình trạng ô nhiễm môi trường, buôn bán động vật hoang dã, khai thác, đánh bắt trái phép… Để giải quyết các thách thức này, CPTPP kêu gọi các quốc gia thành viên xây dựng cơ chế thực hiện cam kết về môi trường, như thực hiện các văn kiện đa phương, xóa bỏ các bảo hộ gây tổn hại môi trường, xóa bỏ thuế quan và rào cản thương mại theo hướng bảo vệ môi trường. CPTPP cũng kêu gọi sự hợp tác giữa các chính phủ để giải quyết các mối đe dọa, tội phạm môi trường, trợ giúp các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người thấp, nâng cao năng lực thực thi pháp luật về môi trường.
Điểm hạn chế lớn nhất đối với vấn đề môi trường là CPTPP vẫn chưa xây dựng được các cơ chế cụ thể để thực hiện các quy định này. Ngoài ra, mặc dù đề cập đến một số vấn đề, như phát triển bền vững, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ rừng, đại dương,… song CPTPP không đề cập đến biến đổi khí hậu – một thách thức về môi trường và quyền con người đối với các nước thành viên của CPTPP.
Tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo và bảo đảm quyền phụ nữ trong thương mại, kinh doanh
Một nội dung quan trọng khác không mang tính thương mại trong CPTTP là các quy định tại Chương 23 về cam kết đẩy mạnh và củng cố môi trường thương mại đầu tư nhằm bảo đảm sự phát triển toàn diện. Theo đó, khái niệm “phát triển” trong CPTPP không chỉ đơn thuần là sự tăng trưởng kinh tế mà cần phải bảo đảm sự cân đối với một loạt vấn đề xã hội, như cải thiện phúc lợi, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm quyền có mức sống đủ và tạo cơ hội việc làm… Chương 23 cũng đưa ra các quy định về bảo vệ quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt là bảo đảm quyền của phụ nữ. Điều 23.4 nhấn mạnh, các quốc gia thành viên cần tạo cơ hội khuyến khích phụ nữ tham gia phát triển kinh tế thông qua các chương trình nâng cao năng lực tiếp cận thị trường, công nghệ, tài chính, đặc biệt là chương trình hỗ trợ xây dựng mạng lưới lãnh đạo nữ trong kinh doanh.
Minh bạch hóa và chống tham nhũng
Chương Minh bạch hóa và chống tham nhũng có mục đích thúc đẩy các mục tiêu tăng cường quản trị tốt và xử lý những ảnh hưởng của hối lộ và tham nhũng trong thương mại, đầu tư và chính sách của chính phủ về thương mại và đầu tư. Theo đó, các quy định về minh bạch và chống tham nhũng trong CPTPP điều chỉnh một số vấn đề cơ bản sau:
Quốc gia thành viên của CPTPP phải bảo đảm để luật pháp, quy định và các quy chế hành chính có liên quan tới bất kỳ vấn đề nào được quy định trong CPTPP đều được công bố công khai. Các quốc gia cần bảo đảm quyền lợi theo quy trình thủ tục đối với tố tụng hành chính cho các bên liên quan đến CPTPP, bao gồm việc nhanh chóng xem xét, rà soát lại hệ thống thủ tục tố tụng hành chính một cách độc lập, không thiên vị. Các bên cũng cam kết duy trì pháp luật hình sự để loại bỏ việc cung cấp những lợi ích không chính đáng cho công chức hay có hành vi hối lộ gây ảnh hưởng đến đầu tư và thương mại quốc tế. Quốc gia thành viên cần cam kết áp dụng hiệu quả các quy định và luật pháp về chống tham nhũng, thúc đẩy liêm chính cho các quan chức của chính phủ. Hơn nữa, các quốc gia thành viên cần nỗ lực duy trì hoặc áp dụng các tiêu chuẩn, quy tắc ứng xử của công chức, cũng như các biện pháp để giảm xung đột lợi ích. Để thực hiện điều này, trước hết cần có sự cam kết tăng cường đào tạo công chức, tránh việc nhận quà tặng, khuyến khích báo cáo về các nguy cơ tham nhũng và có hình thức kỷ luật đối với các công chức có hành vi tham nhũng(7).
So với các hiệp định thương mại khác, các điều khoản về tham nhũng và quản trị điều hành của CPTPP khá chặt chẽ. Điều này đặt ra yêu cầu mới cho tất cả các quốc gia thành viên của CPTPP trong việc xây dựng các chuẩn mực mới về minh bạch, sửa đổi các quy định pháp luật hiện hành và cơ chế thực thi về phòng, chống tham nhũng một cách hiệu quả hơn.
Tác động của CPTPP đến quyền con người ở Việt Nam
Ngày 12-11-2018, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn CPTPP và các văn kiện có liên quan. Hiện nay, Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đã xây dựng và thông qua kế hoạch thực hiện CPTPP(8).
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia thành viên được hưởng lợi nhiều từ CPTPP. Gia nhập CPTPP sẽ giúp Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường thế giới, thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tạo việc làm, tăng thu nhập, bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người lao động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tham gia CPTPP, Việt Nam cũng có thêm cơ hội và thuận lợi để mở rộng thị trường xuất khẩu, nhất là thị trường xuất khẩu nông sản. Việc gia nhập CPTPP cũng đồng thời đặt ra nhiều tác động (tích cực và tiêu cực) đối với quá trình tôn trọng, bảo vệ và thực thi quyền con người ở Việt Nam.
Gần như các lĩnh vực điều chỉnh khác nhau của CPTPP đều đặt ra rủi ro về quyền con người. Có thể thấy rõ điều này qua phân tích về tác động của CPTPP đến một số quyền con người cụ thể ở Việt Nam.
CPTPP với việc bảo đảm các quyền lao động ở Việt Nam
Tính đến tháng 4-2019, trong tổng số 12 FTA mà Việt Nam đã ký kết, CPTPP là FTA đầu tiên có chương riêng về lao động(9). Theo CPTPP, Việt Nam có nghĩa vụ phải thực hiện các cam kết về cải cách pháp luật và thể chế để tuân thủ các cam kết về lao động như quy định tại Chương 19. Mặc dù so với các hiệp định thương mại đa phương trước đây, quyền lao động là một nội dung mới của CPTPP, về cơ bản, việc thực hiện nghĩa vụ này không quá mới đối với Việt Nam vì đây là những cam kết đã quy định trong Tuyên bố năm 1998 và các công ước của ILO mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể là, Việt Nam đã phê chuẩn 5/8 công ước cơ bản của ILO có liên quan đến các cam kết về lao động của CPTPP. Theo đó, các quy định của CPTPP về xóa bỏ mọi hình thức lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc, xóa bỏ có hiệu quả lao động trẻ em và xóa bỏ phân biệt đối xử trong công việc đều đã được Việt Nam cam kết trong các công ước của ILO mà Việt Nam đã phê chuẩn, đó là các công ước số 29, 100, 111, 138, 192. Hầu hết các nội dung của 5 Công ước cơ bản này đã được quy định và nội luật hóa vào hệ thống pháp luật Việt Nam.
Một trong những nội dung được nhấn mạnh trong CPTTT là việc thực hiện quyền tự do hội họp và thương lượng tập thể, trong đó bao gồm quyền thành lập công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp của người lao động. Trong số các cam kết về lao động của CPTPP, quy định về các quyền này vẫn chưa được chuyển hóa đầy đủ vào hệ thống pháp luật trong nước. Một mặt, đây là một cơ chế mới so với cơ chế hoạt động của Công đoàn Việt Nam hiện nay tất cả đều trực thuộc Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Do vậy, Công đoàn lao động Việt Nam đứng trước thách thức phải đổi mới cả về tổ chức và chức năng để trở thành một tổ chức đại diện thực sự cho tiếng nói của người lao động. Mặt khác, là quốc gia đang phát triển, thị trường lao động sử dụng lợi thế giá rẻ chiếm đa số thì việc yêu cầu doanh nghiệp thực hiện các cam kết về quyền lao động theo tiêu chuẩn của CPTPP có thể sẽ ảnh hưởng tới lợi thế cạnh tranh về lao động của Việt Nam.
CPTPP với việc bảo đảm quyền về sức khoẻ ở Việt Nam
Mặc dù CPTPP khẳng định bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ cần không gây trở ngại cho việc thực hiện các biện pháp để bảo vệ nền y tế công cộng của các quốc gia, nhưng trong thực tế các quy định cụ thể về sở hữu trí tuệ của CPTPP vẫn đặt ra một số thách thức đối với việc bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là quyền được tiếp cận các thuốc điều trị cơ bản đối với các quốc gia đang phát triển.
Với việc CPTPP có hiệu lực, các sản phẩm thuốc gốc giá rẻ có thể sẽ bị hạn chế phân phối ở thị trường Việt Nam, dẫn tới hạn chế cơ hội tiếp cận thuốc của người dân. Với việc Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình, các nhà tài trợ sẽ nhanh chóng cắt giảm hoặc chấm dứt viện trợ cho chăm sóc, điều trị các bệnh hiểm nghèo ở Việt Nam.
Ngoài ra, quy định về sở hữu trí tuệ trong CPTPP cũng ảnh hưởng đến tính sẵn có của nhiều loại thuốc khác, đặc biệt là những loại thuốc có độc quyền sáng chế hơn 5 năm, thậm chí 10 năm. Theo đó, khi Việt Nam bị cắt giảm các viện trợ y tế, kết hợp với giá thuốc đắt do thời gian sở hữu bản quyền thương mại kéo dài theo quy định của CPTPP thì những tác động đến quyền về sức khỏe là không thể tránh khỏi(10).
Trong thời gian tới, nếu không có kế hoạch cụ thể, việc thực hiện quy định về sở hữu trí tuệ của CPTPP có thể gây nên nhiều tác động tiêu cực đối với việc bảo đảm quyền được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ở Việt Nam.
CPTPP và quyền sử dụng đất của các dân tộc thiểu số
Đất đai là nguồn tư liệu sản xuất quan trọng của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Chính sách đất đai giữ vai trò quan trọng trong việc giải quyết đói nghèo và bất ổn xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số do nhóm đối tượng này có nguồn lợi sinh sống chủ yếu nhờ vào sản xuất nông nghiệp gắn với tài nguyên đất đai, rừng. Những thay đổi về chính sách, pháp luật về đất đai do ảnh hưởng của CPTPP có thể mở ra những cơ hội mới về đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, thủy điện, khai khoáng, nhưng lại gây ảnh hưởng đến quyền tiếp cận đất đai của đồng bào dân tộc thiểu số. Chẳng hạn, tình trạng thu hồi đất để giao cho các nhà đầu tư và xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng sẽ dẫn tới việc di dân hàng loạt để thực hiện công tác tái định cư. Ở khu vực có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, các chương trình tái định cư có thể ảnh hưởng đến các quyền về văn hóa, giữ gìn phong tục, tập quán, cũng như quyền về sinh kế, quyền tiếp cận nước, dịch vụ y tế, giáo dục… khi di chuyển đến nơi ở mới.
Trong thời gian tới, khi triển khai các cam kết của CPTTP sẽ có nhiều tác động về quyền con người, đặc biệt là các nhóm quyền liên quan đến sở hữu trí tuệ, lao động, công nghệ, môi trường… Chẳng hạn, quyền về an ninh lương thực và quyền được có mức sống thỏa đáng của nông dân sẽ bị ảnh hưởng mạnh mẽ khi hàng rào thuế quan đối với các sản phẩm nông nghiệp bị xóa bỏ.
CPTPP không phải là một hiệp định thương mại miễn phí hay ưu đãi đầu tư mà là hiệp định về quản lý thương mại trong khu vực với các quy tắc chung về vận hành kinh tế. Khi thực hiện các quy định này, các quốc gia cần bảo đảm để các nguyên tắc thị trường không gây nên những tác động tiêu cực đến quyền con người. Tăng trưởng kinh tế, phát triển thương mại không tự động dẫn đến việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Do vậy, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia, đặc biệt là quốc gia đang phát triển cần phải có sự cân nhắc, lựa chọn phù hợp để hạn chế các tác động tiêu cực đến quyền con người. Các nghiên cứu, đánh giá về tác động của CPTPP đối với Việt Nam hiện nay mới chỉ chủ yếu tập trung ở góc độ kinh tế, nhất là thương mại, đầu tư hoặc một số khía cạnh tác động cụ thể về mặt xã hội mà chưa tập trung đánh giá tác động về quyền con người một cách toàn diện cho dù đây là một nội dung quan trọng trong văn kiện của CPTPP(11). Vì vậy, để bảo đảm thực hiện tốt Hiệp định này, Việt Nam cần tiến hành đánh giá có tính toàn diện hơn về tác động đến quyền con người trong hoạt động thương mại nói chung, thực hiện CPTPP nói riêng. Gia nhập CPTPP cũng là cơ hội để tiến hành cải cách thể chế, do vậy Việt Nam cần rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp lý và thiết chế trong nước theo hướng phù hợp với các quy định về quyền con người của CPTPP nhằm tận dụng được các tác động tích cực và hóa giải các tác động tiêu cực của văn kiện thương mại này đối với sự phát triển của Việt Nam./.
——————————————
(1) 11 thành viên của CPTPP bao gồm: Ô-xtrây-li-a, Bru-nây, Chi-lê, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Ca-na-đa, Pê-ru, Xin-ga-po, Việt Nam và Nhật Bản. Những nước và vùng lãnh thổ đang có ý định tham gia CPTPP gồm: Hàn Quốc, Cô-lôm-bi-a, Cô-xta Ri-ca, In-đô-nê-xi-a, Đài Bắc Trung Hoa, Thái Lan…
(2) Su-Hyun Lee and Chia-yi Le: “The CPTPP and WTO:A Win-win or Zero-sum Situation?”,https://www.rsis.edu.sg/wp-content/uploads/2015/10/CO15222.pdf , truy cập ngày 25-5-2019
(3) Xem Chương 18 của CPTPP
(4) Xem phụ lục Chương 18 CPTPP
(5) Xem Lời nói đầu của CPTPP
(6) Điều 20.2 của CPTPP
(7) Xem Chương 26 của CPTPP
(8) Xem: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Kế hoạch thực hiện, http://cptpp.moit.gov.vn/?page=overview&category_id=ae16c761-9aca-4f55-b3e8-f3e43979bb59
(9) 12 hiệp định FTA đã ký kết bao gồm: CPTPP; ASEAN; ASEAN – Ấn Độ; ASEAN – Ô-xtrây-li-a/Niu Di-lân; ASEAN – Hàn Quốc; ASEAN – Nhật Bản; ASEAN- Trung Quốc, ASEAN – Hồng Công (Trung Quốc); Việt Nam – Nhật Bản; Việt Nam – Chi-lê; Việt Nam – Hàn Quốc; Việt Nam – Liên minh kinh tế Á – Âu. Ngoài ra Việt Nam đang trong quá trình chuẩn bị phê chuẩn Hiệp định thương mại Việt Nam – EU
(10) Xem: Sanya Reid Smith: Potential human rights impacts of the TPP, Third World Network, 2015, tr. 40 – 43
(11) Ví dụ, Ngân hàng thế giới có nghiên cứu về “Tác động kinh tế và phân bổ thu nhập của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương: Trường hợp của Việt Nam”, 2018
Nguyễn Thị Thanh Hải – TS, Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh