Hợp tác kỹ thuật-quân sự Nga-Trung và luật CAATSA chỉ là cái cớ để tăng áp lực lên Trung Quốc và các ngành công nghiệp công nghệ cao của Nga-Trung Quốc.
Trừng phạt không đúng thời hạn chế tài
Theo giới quan sát, lệnh trừng phạt của Mỹ chống lại Cục Phát triển trang bị thuộc Quân ủy trung ương Trung Quốc, vì lý do Bắc Kinh đã mua những tiêm kích Su-35 và hệ thống tên lửa phòng không S-400 của Nga, không có mục đích trừng phạt Trung Quốc về sự hợp tác kỹ thuật-quân sự với Nga, hoặc ngăn chặn sự hợp tác như vậy trong tương lai.
Chuyên gia quân sự Nga Vasily Kashin nhận xét trong bài bình luận trên Sputnik rằng, đây chỉ là một bước mới trong hàng loạt biện pháp đang được thực hiện hoặc đang được chuẩn bị tại Hoa Kỳ để làm suy yếu tiềm năng kinh tế và công nghệ của Trung Quốc.
Trong danh sách các biện pháp mà Hoa Kỳ đang thực hiện kể từ đầu năm 2018 có cuộc chiến tranh thương mại, các biện pháp trừng phạt chống lại một số công ty công nghệ cao của Trung Quốc (ví dụ như ZTE), gây trở ngại cho các doanh nghiệp Trung Quốc mua lại tài sản của những công ty công nghệ ở phương Tây và việc chuẩn bị gói biện pháp trừng phạt Trung Quốc vì nước này “vi phạm nhân quyền trong khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương”.
Như thông lệ, các biện pháp trừng phạt được bên này áp dụng để buộc phía bên kia phải thay đổi hành vi của mình, nhưng trong trường hợp này, mục tiêu của Mỹ là khác.
Vấn đề quan trong là ở chỗ, hợp đồng cung cấp các tổ hợp S-400 cho Trung Quốc đã được ký kết vào năm 2014 và lô hàng các máy bay Su-35 đã được bàn giao cho Trung Quốc theo hợp đồng được ký kết năm 2015. Tức là, cả hai hợp đồng đã được ký kết từ lâu trước khi Mỹ thông qua luật CAATSA.
Đến lúc luật CAATSA đi vào hiệu lực, Trung Quốc đã trả cho Nga một khoản tiền đáng kể về các hợp đồng này và đã nhận được một phần thiết bị. Ngay cả nếu Trung Quốc không muốn mua nữa, họ cũng không thể đơn phương chấm dứt hai hợp đồng này.
Mỹ đang gia tăng trừng phạt Nga và Trung Quốc vì hợp tác kỹ thuật quân sự
Thông thường, nếu ai đó áp đặt biện pháp trừng phạt, thì các hợp đồng đang được thực hiện không bị liệt vào danh sách bị trừng phạt, nhưng, phía Mỹ đã không làm như vậy.
Những phân tích trên đã làm rõ một điều: Rõ ràng là Hoa Kỳ đang tiến hành cuộc chiến kinh tế chống lại Nga và Trung Quốc.
Trừng phạt không đúng đối tượng chế tài
Cuộc chiến kinh tế chống lại Nga nhằm mục đích gây mất ổn định trong hệ thống tài chính và các ngành công nghiệp khai thác nhằm gây ra sự bất mãn của người dân và thay đổi chế độ cầm quyền ở Moscow.
Còn cuộc chiến kinh tế chống lại Bắc Kinh lúc đầu nhằm mục đích gây thiệt hại tối đa cho các ngành công nghệ cao, mà theo chính phủ Trung Quốc, các ngành này là cơ sở của sự tăng trưởng kinh tế dài hạn. Trong dài hạn, việc “tiêu diệt” các ngành công nghiệp này và chấm dứt đà phát triển công nghệ của Trung Quốc có thể gây ra sự suy giảm kinh tế và bất ổn xã hội.
Theo phân tích của giới chuyên gia, biện pháp trừng phạt chống lại Cục Phát triển trang bị – đơn vị chủ chốt của Quân ủy trung ương Trung Quốc, phụ trách lĩnh vực định hướng phát triển, mua sắm vũ khí và trang thiết bị quân sự sẽ không có hậu quả đáng kể ngay lập tức.
Kể từ năm 1989 sau sự kiện đàn áp đẫm máu cuộc biểu tình trên Quảng trưởng Thiên An Môn ở Thủ đô Bắc Kinh, Mỹ và Liên minh châu Âu bắt đầu áp đặt các biện pháp trừng phạt chống lại Trung Quốc để hạn chế việc cung cấp vũ khí và trang thiết bị quân sự cho nước này.
Tuy nhiên, không chỉ sai về thời gian chế tài, Mỹ còn cố tình áp dụng sai đối tượng chịu lệnh trừng phạt.