Nếu người ta chỉ dựa vào lời nói để đánh giá một cá nhân, tổ chức thì có lẽ cả thế giới này vốn không có ai xấu, bởi vậy người ta mới có những câu “nói thì dễ, làm mới khó” hay “trăm lời nói hay không bằng một việc làm thiết thực”. Trường hợp của USCIRF (Viết tắt của từ: Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế của Hoa Kỳ). Nghe tên có vẻ rất nhân văn, nếu chỉ đọc có lẽ người ta sẽ nghĩ đây là một tổ chức “vì tự do tôn giáo”. Nhưng hãy nhìn vào những gì họ đã làm?
Mục sư Nguyễn Công Chính
Không có năm nào Việt Nam thoát khỏi cái gọi là “công bố bản báo cáo thường niên về tình hình tự do tôn giáo toàn cầu năm xxx”, và thậm chí luôn được ưu ái, quan tâm cho đứng top đầu, kèm theo đó những lời nhận xét na ná nhau, triền miên năm này qua năm khác “Chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục kiểm soát toàn bộ các hoạt động tôn giáo thông qua các luật, giám sát hành chính hạn chế ngặt nghèo những hoạt động tôn giáo độc lập, đàn áp những cá nhân và nhóm tôn giáo không được chính phủ nhìn nhận bao gồm: Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, các phật tử người Khmer-Krom, Cao Đài, Hòa Hảo, Công Giáo, Tin lành của người Hmông, người Thượng ở Tây nguyên, và hội thánh Mennonites ở tỉnh Bình Dương”.
Mặc cho, thực tế những năm qua, tôn giáo ở Việt Nam đã phát triển rất mạnh mẽ. Chỉ tính đến năm 2014, theo số liệu thống kê, cả nước đã có 12 tôn giáo với 37 tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận hoạt động trong khuôn khổ pháp luật (tăng gấp 2 lần so với năm 2006), với hơn 100.000 chức sắc và nhà tu hành, gần 26.000 cơ sở thờ tự và trên 30 triệu tín đồ, chiếm 1/3 dân số cả nước. Trong đó, tín đồ Phật giáo 14 triệu, Thiên Chúa giáo 6 triệu, Tin lành 1,5 triệu, Cao Đài gần 3,5 triệu, Phật giáo Hòa Hảo 1,5 triệu, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội 1,5 triệu, Tứ Ân Hữu Nghĩa 78.000 và Hồi giáo 67.000,… Riêng trên địa bàn Tây Nguyên, năm 1975 chỉ có 50.000 người/200 thôn, làng theo đạo Tin lành, đến nay, đã là hơn 500.000 người/18.000 thôn, làng. Bên cạnh đó, việc học tập, đào tạo của các tôn giáo cũng được phát triển nhanh. Từ chỗ chỉ có 22 trường cao đẳng, trung cấp Phật học (năm 1993), đến nay, cả nước đã có 4 học viện Phật giáo và 49 trường cao đẳng, trung cấp, sơ cấp Phật học; Giáo hội Công giáo có 6 Đại Chủng viện với hàng nghìn chủng sinh,… Không những thế, Nhà nước còn tạo điều kiện cho hàng trăm tu sĩ đi học tập, hội thảo nâng cao trình độ ở nước ngoài và nhiều người đã trở thành tiến sĩ Phật học. Việc in ấn, xuất bản kinh sách được Nhà nước quan tâm, hầu hết các tổ chức tôn giáo đều có báo, tạp chí, bản tin, đáp ứng yêu cầu hoạt động của các tôn giáo. Chỉ tính riêng Nhà xuất bản Tôn giáo, mỗi năm đã cấp phép xuất bản hơn 1.000 ấn phẩm liên quan đến tôn giáo. Hằng năm, có khoảng 8.500 lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo được tổ chức ở các quy mô khác nhau trên phạm vi cả nước; trong đó, các sự kiện trọng đại của các tôn giáo đều được chính quyền các cấp tạo điều kiện tổ chức và lãnh đạo Đảng, Nhà nước, địa phương đều quan tâm, động viên, chúc mừng. Năm 2011, đã diễn ra Đại lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam với sự tham gia của hàng nghìn tăng ni, phật tử trong nước và trên 2.000 chức sắc, tín đồ đến từ nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra, quan hệ đối ngoại của các tôn giáo cũng được Nhà nước tạo điều kiện và ngày càng mở rộng, nhất là quan hệ với các tổ chức tôn giáo ở khu vực Đông Nam Á, Tây Âu và Tòa thánh Va-ti-căng, góp phần làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước cũng như tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam. Những con số biết nói nêu trên là bằng chứng sinh động bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt về tình hình tôn giáo tại Việt Nam
Và mới đây, trong cái gọi là “hội thảo Hội luận về Tù nhân Lương tâm”. Được, Ủy ban về Tự do Tôn giáo Quốc tế của Hoa Kỳ (USCIRF) tổ chức vào ngày 19/4/2018. Thì USCIRF đã cho Nguyễn Công Chính (một kẻ thối nát về nhân cách) phát biểu trịnh trọng trong “Hội luận” của mình, và xem những lời lẽ của Chính như là “bản nhật xét, kết luận’ của tổ chức này. Chính nói ““Khi chính quyền Việt Nam đàn áp và áp lực quốc tế lên tiếng thì họ thả một tù nhân và bắt lại nhiều người khác. Đây là chính sách hai mặt mà Việt Nam thường áp dụng. Sau khi tôi được trả tự do vào tháng 7 năm ngoái, họ đã bắt hàng loạt người trong vụ án Hội Anh em Dân chủ, trong vụ án Formosa ở Nghệ Tĩnh, vụ ông Bùi Văn Trung, vụ ông Vương Văn Thả là những tín đồ Hòa Hảo ở An Giang. Vào đầu tháng này ngay sau khi chính quyền Việt Nam xử án từ 7 năm đến 15 năm tù giam đối với các thành viên Hội Anh em Dân chủ, USCIRF lên án bản án này là “một sự gia tăng quấy nhiễu về tự do tôn giáo và những người ủng hộ nhân quyền ở Việt Nam.”
Về Nguyễn Công Chính thì ối người cũng đã biết, một kẻ tuy mang danh mục sư nhưng hành động không khác gì thằng đầu đường xó chơ. Có thể điểm qua một số ‘thành tích” của tên mục sư này:
Trước và sau khi lấy Nguyễn Thị Hồng làm vợ, Nguyễn Thành Long (tức Nguyễn Công Chính) có nhiều hành vi vi phạm cả đạo đức và pháp luật. Phải nói Nguyễn Thành Long là một con người ăn chơi trác táng. Ông ta có một thói mê gái đến độ không thể chấp nhận được, vi phạm luân thường đạo lý. Do những hành vi vi phạm pháp luật nên ngày 28-5-2008, cơ quan chức năng kiểm tra hành chính thì trong máy tính xách tay của Nguyễn Công Chính chứa rất nhiều phim sex. Chúng tôi có dịp quan sát những tài liệu mà Chính lưu giữ trong máy của mình (Nguyễn Công Chính ký xác nhận những trang tài liệu ấy do mình cất giữ), ngoài những tài liệu chống Nhà nước, hoạt động phản động (chúng tôi sẽ trình bày ở bài viết khác) thì hình ảnh là những hành vi giao cấu dâm loạn, hình ảnh các cô gái trẻ đẹp lõa lồ thân xác… Một người tự nhận mình là mục sư chuyên đi dạy điều phải nhưng có tâm hồn bệnh hoạn như vậy liệu có ai còn nghe những lời ông ta nói? Ngày 7-9-2008, mục sư Nguyễn Hồng Quang (người đã từng viết giấy tay giới thiệu Nguyễn Công Chính là mục sư mà chúng tôi đã trình bày ở phần trước) có bản tường trình gửi các tổ chức có liên quan đến Giáo hội Mennonite, xin được trích nguyên văn những ý chính: “Năm 2006, cô H., sinh năm 1980, dân tộc Gia Rai, ở Pleiku đã bị ông Nguyễn Thành Long (tức mục sư Nguyễn Công Chính) lợi dụng danh nghĩa là người thầy truyền đạo nói dối, lừa cô là yêu cô nên dùng sức và dùng lời ngon ngọt dụ dỗ để quan hệ tình dục nhiều lần (cô H. chỉ nhớ có 5 lần).
Chính cũng đã nhiều lần lén lút lợi dụng danh nghĩa truyền đạo để quan hệ với cô gái khác”. Trong bản tường trình này, mục sư Nguyễn Hồng Quang cho biết: “Ngày 2-9-2007, ông Chính đã quỳ xuống ăn năn xin lỗi, lúc này ông mặc chiếc áo thun màu đỏ, sau đó tôi có thông báo việc này đến các mục sư trong Ban điều hành”. Ông Nguyễn Hồng Quang cho rằng, chuyện quá khứ và Nguyễn Công Chính đã nhận lỗi lầm nên quyết định bỏ qua. Tuy nhiên, hành động tà dâm của Nguyễn Công Chính không dừng lại ở đấy mà y còn cưỡng dâm một cô gái khác tên Y., sinh năm 1989, dân tộc Ba Na, tại Kon Tum. Theo bản tường trình của mục sư Nguyễn Hồng Quang, từ ngày 10 đến 15-11-2007, Nguyễn Công Chính có đưa 2 nữ sinh người dân tộc Ba Na theo đạo Công giáo vào TPHCM để gọi là học kinh thánh. Ngày 15-11 khai giảng nhưng không thấy cô Y. có mặt.
Nguyễn Công Chính từng công tác ở Bộ đội Biên phòng tỉnh Kon Tum, đến năm 1991 đào ngũ và sống lang thang. Năm 2003 Chính tham gia đạo Tin lành thuộc “Giáo hội Tin lành Mennonite Việt Nam” do Nguyễn Hồng Quang cầm đầu (đối tượng phản động trong nước). Tháng 7-2007, chúng chuyển qua thành lập tổ chức mang màu sắc chính trị phản động đội lốt tôn giáo có tên gọi là “Hiệp hội thông công tin lành các sắc tộc Việt Nam” (VPEF). Thời gian này, Chính có nhiều vi phạm như: tích cực hoạt động chống đối chế độ, nói xấu Đảng, Nhà nước; Phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân thông qua việc viết tin bài đăng tải trên mạng internet; lợi dụng danh nghĩa mục sư; Tuyên truyền các hoạt động mê tín dị đoan như: nhịn ăn, nhịn uống, cầu nguyện cả ngày lẫn đêm, làm cho không ít người nhẹ dạ, cả tin bị nguy hiểm đến tính mạng, phải đi bệnh viện cấp cứu; Thậm chí Chính còn dụ dỗ, cưỡng ép tín đồ nữ quan hệ bất chính với y (điển hình là cô RaLan H’Thúy, tín đồ của Hội thánh Pleimơnú, Tp.Pleiku, tỉnh Gia Lai); Giả mạo chữ ký chiếm đoạt 270 triệu đồng của VPEF.
Còn về các cá nhân, tổ chức như : ‘Hội Anh em dân chủ”, Bùi Văn Trung, Vương Văn Thả..thì khỏi phải bàn, bởi cơ quan chức năng đã có đủ chứng cứ, và ngay các tổ chức gắn mác quốc tế thường xuyên che chở cho chúng cũng không thể há miệng bảo vệ “tay chân” của mình.
Như vậy, USCIRF có thực sự như cái tên mĩ miều của nó, là vì “tự do tôn giáo” hay như nhiều người nhận xét tổ chức này chỉ có thể là lợi dụng quyền “tự do tôn giáo” để bảo vệ, che chở cho các đối tượng có hoạt động chống chính quyền nhân dân, và rất có thể là cánh tay nối dài của “Việt Tân”, là tay sai của chính quyền Mỹ trong “chiến lược diễn biến hòa bình” chống các nước xã hội chủ nghĩa, và cũng có thể hiểu là một tổ chức phản động.
LÊ PHAN