Nói đến hưởng thụ văn hóa, trong đa số trường hợp, chúng ta đề cập tới lĩnh vực văn hóa tinh thần, như thưởng thức âm nhạc, hội họa, múa, thi ca… Trong Lục nghệ, sáu môn học bắt buộc thời phong kiến (lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số), âm nhạc xếp ở vị trí thứ hai, có liên quan mật thiết với lễ và là một trong những biện pháp để tu thân. Sau này, các bộ môn nghệ thuật ngày càng có xu hướng xa dần trung tâm của ngành giáo dục. Mặc dù, theo phương châm giáo dục toàn diện, âm nhạc, hội họa vẫn nằm trong tổ hợp các bộ môn thuộc lĩnh vực trí, đức, thể, mỹ, nhưng xét từ nội dung đến hình thức, các môn học về đức, thể, mỹ chủ yếu dạy cho có, chứ không dạy cho tới. Kết quả đó gây ảnh hưởng trực tiếp đến trình độ thưởng thức nghệ thuật của học sinh, cũng như tầng lớp đại chúng, đồng thời gián tiếp tác động tới nhu cầu hưởng thụ văn hóa.
Như đã đề cập, hưởng thụ văn hóa trong đa số trường hợp là hướng tới giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần này không thể thụ hưởng giống như văn hóa vật chất mà phải thông qua năng lực hấp thụ hay nói cách khác, tiếp xúc, tiêu dùng bằng trình độ thẩm mỹ, qua đó nhằm tận hưởng giá trị nội tại ẩn chứa bên trong lẫn bên ngoài sản phẩm văn hóa. Hưởng thụ văn hóa vật chất, như ẩm thực chẳng hạn, người thưởng thức có thể bị giới hạn về điều kiện sinh lý, thể chất, vật chất, kinh tế… còn hưởng thụ văn hóa tinh thần có khả năng vươn tới cảnh giới phi hạn độ, cũng như đạt được tinh thần bình đẳng. Năng lực hay trình độ “thưởng” và “thức” đối với văn hóa tinh thần không phụ thuộc bởi thân phận, địa vị xã hội, bằng cấp, giàu, nghèo… mà hình thành từ phẩm chất, tố chất tự nhiên lẫn xã hội, cùng quá trình rèn luyện, tu tập với những trải nghiệm về thẩm mỹ.
Sáng tạo – biểu diễn – thưởng thức là chuỗi mắt xích liên kết chặt chẽ với nhau. Trong xu hướng thay đổi hình hệ, phương pháp nghiên cứu văn học cận đại đã không ngừng mở rộng phạm vi đối tượng, trong đó đặc biệt có sự tham gia của người thưởng thức. Đây là bước chuyển biến quan trọng trong khoa học nghệ thuật.
Khán thính giả có trình độ thưởng thức tốt, đời sống văn hóa, văn nghệ sẽ được thanh lọc và phát huy cao giá trị tinh thần, đồng thời giúp cho đời sống con người hướng thượng, hướng thiện, hướng mỹ, coi trọng cái đẹp, xây dựng cuộc sống theo quy luật của cái đẹp. Còn nếu đại bộ phận công chúng có trình độ thẩm mỹ kém, coi văn hóa tinh thần là thứ hàng hóa thuần túy, có thể tiêu dùng một cách đại trà, thậm chí lấy việc hưởng thụ văn hóa ra để chứng minh đẳng cấp, địa vị xã hội, khi đó giá trị tinh thần có khuynh hướng bị tha hóa, suy đồi. Nói chung, cả hoạt động sáng tạo, biểu diễn và thưởng thức đều cần được huấn luyện, bồi dưỡng, giáo dục. Ở nước ta, hai lĩnh vực sáng tạo và biểu diễn được truyền dạy trong cơ sở giáo dục nghệ thuật chuyên nghiệp. Nó thuộc về thiểu số. Còn thưởng thức nghệ thuật thuộc về đa số lại phó thác hoàn toàn cho xã hội, không được bồi dưỡng trong cơ sở giáo dục. Trong cơ sở giáo dục, học sinh không học môn “cảm thụ nghệ thuật”, “thưởng thức nghệ thuật”… Lấy ví dụ đối với bộ môn âm nhạc, học sinh từ lớp 1 đến lớp 9 chỉ học hát, lý thuyết âm nhạc, tiểu sử tác giả mà không được học cách chơi nhạc cụ, tương tác với âm thanh… Mớ lý thuyết đó nếu không vận dụng vào thực tiễn sẽ rơi rớt dần, đồng thời không thể biến thành trải nghiệm nghệ thuật nhằm nâng cao khả năng hưởng thụ văn hóa.
Trước bối cảnh thẩm mỹ đại chúng sa sút, nhiều người đã đổ lỗi cho thị trường. Trên thực tế, lỗi này thuộc về giáo dục, chứ không phải của thị trường. Khán thính giả xét cho cùng là nhóm đối tượng đã được điều kiện hóa. Sở dĩ di sản âm nhạc cổ điển phương Tây được lưu truyền, phổ biến rộng rãi là nhờ thành quả của giáo dục. Học sinh, sinh viên các quốc gia phương Tây đều có chung nền tảng giáo dục thẩm mỹ tốt. Nhờ vậy, văn hóa thẩm mỹ đại chúng được thừa hưởng và phát huy tác dụng trong điều kiện thể chế và thiết chế văn hóa kiện toàn. Ngay tại nhiều quốc gia châu Á, như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông… cũng đạt tới những thành tựu đáng kể về giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường. Ngoài xã hội, họ dành nhiều không gian, thời gian cho nghệ thuật lên tiếng, hiện hữu bên cạnh hệ thống các bảo tàng nghệ thuật, trung tâm lưu trữ âm thanh, hình ảnh, sách công cụ, tư liệu động, tĩnh, các hoạt động tương tác nghệ thuật… Theo đó, học sinh, sinh viên cũng có nhiều thời gian để tiếp xúc, trải nghiệm, rèn luyện kỹ năng nghệ thuật.
Trên danh nghĩa giáo dục toàn diện, nhưng học sinh Việt Nam không có năng lực tương ứng. Nhiều môn học dư thừa đã tước mất thời gian, công sức, cơ hội của học sinh để đầu tư cho tương lai. Đứng ở góc độ xã hội, đó là sự lãng phí ghê gớm.
Hưởng thụ văn hóa tinh thần chính là thước đo tiến bộ xã hội. “Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế”. Trên thực tế, còn khoảng cách khá dài để mục tiêu trên thực sự trở thành hiện thực.
Lê Hải Đăng