LGT: Đây là bài viết mới đăng trên mạng truyền thông Eisenhower của Hoa Kỳ (Link: https://t.co/Px2rqGWv8N). Bài viết về chiến tranh Nga – Ukraine dưới góc nhìn của nhà nghiên cứu chính trị Hoa Kỳ và cố gắng nhìn nhận cuộc chiến đó dưới góc nhìn của người Nga. Dù còn nhiều điểm Tre Làng chưa đồng tình, nhưng cũng có những điểm khá khách quan. Vì thế, Tre Làng đăng lại bài viết bằng tiếng Việt thông qua công cụ Google dịch có kiểm soát, với mong muốn chuyển tải thông tin khách quan tới bạn đọc.
***
Chiến tranh Nga-Ukraine là một thảm họa không thể cứu vãn. Hàng trăm nghìn người đã thiệt mạng hoặc bị thương. Hàng triệu người đã phải di dời. Sự tàn phá về môi trường và kinh tế là không thể đo đếm được. Sự tàn phá trong tương lai có thể lớn hơn theo cấp số nhân khi các cường quốc hạt nhân ngày càng tiến gần đến chiến tranh công khai.
Ảnh chụp màn hình bài báo.
Chúng tôi lấy làm tiếc về bạo lực, tội ác chiến tranh, các cuộc tấn công bằng tên lửa bừa bãi, chủ nghĩa khủng bố và các hành động tàn bạo khác là một phần của cuộc chiến này. Giải pháp cho bạo lực gây sốc này không phải là nhiều vũ khí hơn hay nhiều chiến tranh hơn, với sự đảm bảo của chúng là chết chóc và hủy diệt hơn nữa.
Với tư cách là người Mỹ và các chuyên gia an ninh quốc gia, chúng tôi kêu gọi Tổng thống Biden và Quốc hội sử dụng toàn bộ quyền lực của mình để nhanh chóng chấm dứt Chiến tranh Nga-Ukraine thông qua ngoại giao, đặc biệt là trước những nguy cơ nghiêm trọng của việc leo thang quân sự có thể vượt khỏi tầm kiểm soát.
Sáu mươi năm trước, Tổng thống John F. Kennedy đã đưa ra một nhận xét rất quan trọng đối với sự sống còn của chúng ta ngày nay. “Trên tất cả, trong khi bảo vệ lợi ích sống còn của chúng ta, các cường quốc hạt nhân phải ngăn chặn những cuộc đối đầu khiến kẻ thù phải lựa chọn hoặc rút lui nhục nhã hoặc chiến tranh hạt nhân. Áp dụng cách thức đó trong thời đại hạt nhân sẽ chỉ là bằng chứng về sự phá sản chính sách của chúng ta – hoặc về một lời chúc chết tập thể cho thế giới.”
Nguyên nhân trực tiếp của cuộc chiến thảm khốc này ở Ukraine là cuộc xâm lược của Nga. Tuy nhiên, các kế hoạch và hành động nhằm mở rộng NATO đến biên giới của Nga đã kích động nỗi sợ hãi của Nga. Và các nhà lãnh đạo Nga đã thực hiện quan điểm này trong 30 năm. Ngoại giao thất bại dẫn đến chiến tranh. Bây giờ ngoại giao là cần thiết khẩn cấp để chấm dứt Chiến tranh Nga-Ukraine trước khi nó phá hủy Ukraine và gây nguy hiểm cho nhân loại.
Tiềm năng cho hòa bình
Nỗi lo địa chính trị hiện tại của Nga được thể hiện qua những ký ức về cuộc xâm lược của Charles XII, Napoléon, Kaiser và Hitler. Quân đội Hoa Kỳ nằm trong số lực lượng xâm lược của quân Đồng minh đã can thiệp không thành công vào bên chiến thắng trong cuộc nội chiến sau Thế chiến thứ nhất ở Nga. Nga coi việc mở rộng và hiện diện của NATO ở biên giới của mình là mối đe dọa trực tiếp; Hoa Kỳ và NATO chỉ nhìn thấy sự chuẩn bị thận trọng. Trong ngoại giao, người ta phải cố gắng nhìn bằng sự đồng cảm chiến lược, tìm cách hiểu đối thủ của mình. Đây không phải là điểm yếu: đó là sự khôn ngoan.
Chúng tôi bác bỏ ý kiến cho rằng các nhà ngoại giao, tìm kiếm hòa bình, phải chọn bên, trong trường hợp này là Nga hoặc Ukraine. Trong ủng hộ ngoại giao, chúng tôi chọn phía của sự tỉnh táo, của nhân loại và Hòa bình.
Chúng tôi coi lời hứa của Tổng thống Biden về việc ủng hộ Ukraine “chừng nào còn cần thiết” là giấy phép để theo đuổi các mục tiêu không rõ ràng và cuối cùng không thể đạt được. Nó có thể chứng minh là thảm họa như quyết định của Tổng thống Putin vào năm ngoái về việc phát động cuộc xâm lược và chiếm đóng tội ác của mình. Chúng tôi không thể và sẽ không tán thành chiến lược chống Nga đến người Ukraine cuối cùng.
Chúng tôi ủng hộ một cam kết thực sự và có ý nghĩa đối với ngoại giao, cụ thể là ngừng bắn ngay lập tức và đàm phán mà không có bất kỳ điều kiện tiên quyết nào bị loại bỏ hoặc ngăn cấm. Những hành động khiêu khích có chủ ý đã dẫn đến Chiến tranh Nga-Ukraine. Theo cách tương tự, ngoại giao thận trọng có thể chấm dứt nó.
Hành động của Hoa Kỳ và cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine
Khi Liên Xô sụp đổ và Chiến tranh Lạnh kết thúc, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Tây Âu đảm bảo với các nhà lãnh đạo Liên Xô và sau đó là Nga rằng NATO sẽ không mở rộng về phía biên giới của Nga. “Sẽ không có sự mở rộng của…NATO thêm một inch về phía đông,” Ngoại trưởng Hoa Kỳ James Baker nói với nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev vào ngày 9 tháng 2 năm 1990. Các nhà lãnh đạo khác của Hoa Kỳ cũng như của các nhà lãnh đạo Anh, Đức và Pháp cũng đưa ra những đảm bảo tương tự. những năm 1990 xác nhận điều này.
Kể từ năm 2007, Nga đã nhiều lần cảnh báo rằng các lực lượng vũ trang của NATO ở biên giới Nga là không thể chấp nhận được – giống như các lực lượng Nga ở Mexico hoặc Canada sẽ không thể chấp nhận được đối với Hoa Kỳ bây giờ, hoặc như tên lửa của Liên Xô ở Cuba vào năm 1962. Nga tiếp tục chỉ ra việc NATO mở rộng sang Ukraine là đặc biệt khiêu khích.
Nhìn cuộc chiến qua con mắt của Nga
Nỗ lực của chúng tôi nhằm tìm hiểu quan điểm của Nga về cuộc chiến của họ không tán thành cuộc xâm lược và chiếm đóng, cũng như không ngụ ý rằng người Nga không có lựa chọn nào khác ngoài cuộc chiến này.
Tuy nhiên, giống như Nga có các lựa chọn khác, Mỹ và NATO cũng có những lựa chọn khác cho đến thời điểm này.
Người Nga đã làm rõ ranh giới đỏ của họ. Ở Gruzia và Syria, họ đã chứng minh rằng họ sẽ sử dụng vũ lực để bảo vệ những đường ranh giới đó. Năm 2014, việc họ ngay lập tức chiếm giữ Crimea và ủng hộ lực lượng ly khai Donbas chứng tỏ họ nghiêm túc trong cam kết bảo vệ lợi ích của mình. Tại sao lãnh đạo Hoa Kỳ và NATO không hiểu điều này là không rõ ràng; kém cỏi, kiêu ngạo, hoài nghi hoặc sự kết hợp phản bội của cả ba yếu tố có khả năng góp phần.
Một lần nữa, ngay cả khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, các nhà ngoại giao, tướng lĩnh và chính trị gia Hoa Kỳ đã cảnh báo về sự nguy hiểm của việc mở rộng NATO đến biên giới Nga và can thiệp ác ý vào phạm vi ảnh hưởng của Nga. Các cựu quan chức Nội các Robert Gates và William Perry đã đưa ra những lời cảnh báo này, cũng như các nhà ngoại giao đáng kính George Kennan, Jack Matlock và Henry Kissinger. Năm 1997, 50 chuyên gia cấp cao về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đã viết một bức thư ngỏ cho Tổng thống Bill Clinton khuyên ông không nên mở rộng NATO, gọi đó là “một sai lầm chính sách có quy mô lịch sử”. Tổng thống Clinton đã chọn bỏ qua những cảnh báo này.
Điều quan trọng nhất đối với sự hiểu biết của chúng ta về sự ngạo mạn và tính toán Machiavellian trong quá trình ra quyết định của Hoa Kỳ xung quanh Chiến tranh Nga-Ukraine là việc bác bỏ các cảnh báo của Williams Burns, giám đốc hiện tại của Cơ quan Tình báo Trung ương. Trong một bức điện tín gửi Ngoại trưởng Condoleezza Rice vào năm 2008, khi đang là Đại sứ tại Nga, Burns đã viết về việc mở rộng NATO và tư cách thành viên của Ukraine:
“Nguyện vọng NATO của Ukraine và Gruzia không chỉ chạm đến sự căng thẳng ở Nga, mà còn gây ra những lo ngại nghiêm trọng về hậu quả đối với sự ổn định trong khu vực. Nga không chỉ nhận thấy sự bao vây, nỗ lực làm suy giảm ảnh hưởng của Nga trong khu vực mà còn lo ngại những hậu quả khó lường, khó kiểm soát sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích an ninh của Nga. Các chuyên gia nói với chúng tôi rằng Nga đặc biệt lo lắng rằng sự chia rẽ mạnh mẽ ở Ukraine về tư cách thành viên NATO, với phần lớn cộng đồng người gốc Nga chống lại tư cách thành viên, có thể dẫn đến sự chia rẽ lớn, liên quan đến bạo lực hoặc tệ nhất là nội chiến. Trong trường hợp đó, Nga sẽ phải quyết định có can thiệp hay không; một quyết định mà Nga không muốn phải đối mặt.”
Tại sao Mỹ vẫn kiên trì mở rộng NATO bất chấp những cảnh báo như vậy? Lợi nhuận từ việc bán vũ khí là một yếu tố chính. Đối mặt với sự phản đối việc mở rộng NATO, một nhóm tân bảo thủ và giám đốc điều hành hàng đầu của các nhà sản xuất vũ khí Hoa Kỳ đã thành lập Ủy ban Hoa Kỳ để mở rộng NATO. Từ năm 1996 đến 1998, các nhà sản xuất vũ khí lớn nhất đã chi 51 triệu đô la (94 triệu đô la ngày nay) cho vận động hành lang và hàng triệu đô la khác cho các khoản đóng góp cho chiến dịch. Với sự hào phóng này, việc mở rộng NATO nhanh chóng trở thành một thỏa thuận được thực hiện, sau đó các nhà sản xuất vũ khí của Hoa Kỳ đã bán vũ khí trị giá hàng tỷ đô la cho các thành viên mới của NATO.
Cho đến nay, Hoa Kỳ đã gửi thiết bị quân sự và vũ khí trị giá 30 tỷ đô la cho Ukraine, với tổng viện trợ cho Ukraine vượt quá 100 tỷ đô la. Người ta nói rằng chiến tranh là một trò chơi, một trò chơi mang lại lợi nhuận cao cho một số ít người được chọn.
Nói tóm lại, việc mở rộng NATO là một đặc điểm chính của chính sách đối ngoại quân sự hóa của Hoa Kỳ được đặc trưng bởi chủ nghĩa đơn phương với sự thay đổi chế độ và các cuộc chiến tranh phủ đầu. Các cuộc chiến tranh thất bại, gần đây nhất là ở Iraq và Afghanistan, đã tạo ra sự tàn sát và đối đầu hơn nữa, một thực tế phũ phàng do chính nước Mỹ tạo ra. Chiến tranh Nga-Ukraine đã mở ra một đấu trường đối đầu và tàn sát mới. Thực tế này không hoàn toàn do chúng ta tạo ra, nhưng nó cũng có thể là do chúng ta hủy hoại, trừ khi chúng ta cống hiến hết mình để tạo ra một giải pháp ngoại giao nhằm ngăn chặn giết chóc và xoa dịu căng thẳng.
Hãy để nước Mỹ trở thành một lực lượng vì hòa bình trên thế giới.
Nguồn tại:
www.EisenhowerMediaNetwork.org
***
Những người ký vào bài viết:
Dennis Fritz, Giám đốc, Mạng truyền thông Eisenhower; Chỉ huy trưởng Trung sĩ, Lực lượng Không quân Hoa Kỳ (đã nghỉ hưu)
Matthew Hoh, Phó Giám đốc, Mạng Truyền thông Eisenhower; Cựu sĩ quan Thủy quân lục chiến, và quan chức Nhà nước và Quốc phòng.
William J. Astore, Trung tá, Lực lượng Không quân Hoa Kỳ (đã nghỉ hưu)
Karen Kwiatkowski, Trung tá, Lực lượng Không quân Hoa Kỳ (đã nghỉ hưu)
Dennis Laich, Thiếu tướng, Quân đội Hoa Kỳ (đã nghỉ hưu)
Jack Matlock, Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Xô, 1987-91; tác giả của Reagan và Gorbachev: Chiến tranh Lạnh đã kết thúc như thế nào
Todd E. Pierce, Thiếu tá, Người biện hộ cho Thẩm phán, Quân đội Hoa Kỳ (đã nghỉ hưu)
Coleen Rowley, Đặc vụ, FBI (đã nghỉ hưu)
Jeffrey Sachs, Giáo sư Đại học tại Đại học Columbia
Christian Sorensen, Cựu nhà ngôn ngữ học tiếng Ả Rập, Lực lượng Không quân Hoa Kỳ
Chuck Spinney, Kỹ sư/Nhà phân tích đã nghỉ hưu, Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng
Winslow Wheeler, cố vấn an ninh quốc gia cho bốn đảng Cộng hòa và Dân chủ Hoa Kỳ
Lawrence B. Wilkerson, Đại tá, Quân đội Hoa Kỳ (đã nghỉ hưu)
Ann Wright, Đại tá, Quân đội Hoa Kỳ (đã nghỉ hưu) và cựu nhà ngoại giao Hoa Kỳ.
***
MỐC THỜI GIAN
1990 – Hoa Kỳ đảm bảo với Nga rằng NATO sẽ không mở rộng về phía biên giới của họ “…sẽ không có sự mở rộng của…NATO dù chỉ một inch về phía đông,” Ngoại trưởng Hoa Kỳ James Baker nói.
1996 – Các nhà sản xuất vũ khí của Hoa Kỳ thành lập Ủy ban Mở rộng NATO, chi hơn 51 triệu đô la để vận động hành lang Quốc hội.
1997 – 50 chuyên gia về chính sách đối ngoại bao gồm các cựu thượng nghị sĩ, sĩ quan quân đội đã nghỉ hưu và các nhà ngoại giao ký một bức thư ngỏ tuyên bố việc mở rộng NATO là một lỗi chính sách có tỷ lệ lịch sử.
1999 – NATO thừa nhận Hungary, Ba Lan và Cộng hòa Séc vào NATO. Hoa Kỳ và NATO ném bom đồng minh của Nga, Serbia.
2001 – Hoa Kỳ đơn phương rút khỏi Hiệp ước tên lửa chống đạn đạo.
2004 – Thêm bảy quốc gia Đông Âu gia nhập NATO. Quân đội NATO hiện đang trực tiếp trên biên giới của Nga.
2004 – Quốc hội Nga thông qua nghị quyết tố cáo sự mở rộng của NATO. Putin trả lời bằng cách nói rằng Nga sẽ “xây dựng chính sách quốc phòng và an ninh của chúng tôi một cách tương ứng.”
2008 – Các nhà lãnh đạo NATO công bố kế hoạch đưa Ukraine và Georgia, cũng ở biên giới Nga, vào NATO.
2009 – Hoa Kỳ công bố kế hoạch đưa các hệ thống tên lửa vào Ba Lan và Romania.
2014 – Tổng thống Ukraine được bầu hợp pháp, Viktor Yanukovych, chạy trốn bạo lực đến Moscow. Nga coi việc lật đổ là một cuộc đảo chính của các quốc gia Hoa Kỳ và NATO.
2016 – Hoa Kỳ bắt đầu tăng quân ở châu Âu.
2019 – Hoa Kỳ đơn phương rút khỏi Hiệp ước Lực lượng hạt nhân tầm trung.
2020 – Hoa Kỳ đơn phương rút khỏi Hiệp ước Bầu trời mở.
2021 – Nga đệ trình các đề xuất đàm phán đồng thời gửi thêm lực lượng tới biên giới với Ukraine. Các quan chức Mỹ và NATO từ chối các đề xuất của Nga ngay lập tức.
Ngày 24 tháng 2 năm 2022 – Nga xâm lược Ukraine, bắt đầu Chiến tranh Nga-Ukraine.
Quảng cáo này phản ánh quan điểm của những người ký tên. Được tài trợ bởi Eisenhower Media Network, một dự án của People Power Initiatives.
Nguồn: Tre làng