Sự kiện 30/4/1975 đã đánh dấu mốc son chói lọi trong lịch sử oai hùng và rất vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Đây cũng là một sự kiện gây chấn động thế giới, làm thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, sau sự kiện này không ít những cá nhân, tổ chức hải ngoại thường xuyên có những hành động và viết bài xuyên tạc về sự kiện này. Chúng luôn coi ngày 30/4 là ngày “quốc hận”. Vậy thực hư vấn đề này như thế nào?
Hiệp định Giơnevơ (Thụy Sỹ) được ký ngày 20-7-1954 về đình chỉ chiến tranh, khôi phục hòa bình ở Đông Dương, bãi bỏ quyền cai trị của người Pháp, công nhận nền độc lập của ba quốc gia Việt Nam, Lào và Campuchia, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương. Theo Hiệp định đã ký kết, nước Việt Nam bị tạm thời chia cắt thành hai miền qua vĩ tuyến 17, các bên tham gia Hội nghị nhấn mạnh rằng “Dù bất cứ trường hợp nào, không thể coi đó là biên giới chính trị hay lãnh thổ”. Sự chia cắt đó chỉ là tạm thời. Hai miền phải thống nhất trước tháng 7 năm 1956 bằng tổng tuyển cử “tự do và dân chủ”. Quân Pháp phải rút quân khỏi miền Bắc và Việt Minh rút khỏi miền Nam trong thời hạn 300 ngày; người dân có quyền lựa chọn ở miền Bắc hay miền Nam, trong thời gian đó, họ được tự do đi lại. Nghiêm cấm quân đội nước ngoài xâm nhập lãnh thổ Việt Nam. Một Ủy ban Giám sát quốc tế gồm có Ba Lan, Ấn Độ và Canađa sẽ giám sát việc thi hành các điều khoản của Hiệp định.
Sau khi thực dân Pháp bị hất văng khỏi Việt Nam 1954, Đế quốc Mỹ đã nhảy vào cuộc và thành lập ra Chính quyền tay sai ở Miền Nam Việt Nam. Như vậy, đế quốc Mỹ đã dùng thủ đoạn bỉ ổi phá hoại Hiệp định Giơnevơ để thực hiện mưu đồ của mình. Xin được trích lại một đoạn viết được đăng trong wikipedia: “trên báo Nhân dân (số 3992) nhằm phản đối việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Ở Hội nghị Giơnevơ, Chính phủ Mỹ đã tuyên bố rằng: Mỹ sẽ không đe doạ hoặc dùng vũ lực cản trở Hiệp định ấy. Nhưng chữ ký chưa ráo mực thì Mỹ đã dùng mọi cách phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Mỹ nặn ra chính phủ bù nhìn phát xít Ngô Đình Diệm, huấn luyện cho nguỵ quyền một quân đội lính đánh thuê khát máu. Suốt mười nǎm trời, gần 20 vạn đồng bào miền Nam yêu nước đã bị Mỹ – Diệm khủng bố, tù đày, chặt cổ mổ bụng. 70 vạn người đã bị tra tấn giam cầm trở nên tàn phế. Hàng triệu người bị nhốt vào các trại tập trung mà chúng gọi là “ấp chiến lược”. Không gia đình nào không có người bị hy sinh. Không làng xóm nào không bị càn quét. Đế quốc Mỹ và bọn tay sai đã phạm hết mọi tội ác dã man, chúng đã biến miền Nam thành một địa ngục.
Hoa Kỳ bên nớ, Việt Nam bên ni, cách nhau hơn hai vạn dặm. Đế quốc Mỹ có quyền gì mà đã phái đến miền Nam gần 3 vạn binh sĩ, 25% tổng số sĩ quan của quân đội Hoa Kỳ, hơn hai tá tướng lĩnh, xây dựng 11 cảng quân sự với hơn 800 tàu chiến các loại và 169 sân bay với 2.000 chiếc phi cơ. Hãng AP Mỹ (26-12-1964) thú nhận rằng bình quân mỗi tháng chỉ loại máy bay A-1 Skyraider đã dội 6.500 tấn bom tàn phá các làng mạc miền Nam. Hãng Anh Roitơ (7-1964) cho biết rằng nǎm 1963, máy bay Mỹ đã đi khủng bố 30 vạn chuyến. Tóm tắt mấy việc nói trên đủ vạch rõ đế quốc Mỹ là kẻ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, đế quốc Mỹ là kẻ xâm lược….”
Những thông tin này ai cũng có thể tra cứu và đọc nó. Lịch sử luôn luôn phản ánh đúng hiện thực, không ai có quyền tô vẽ hoặc xuyên tạc.
Trở lại câu chuyện của những kẻ luôn cho rằng ngày 30/4 là ngày “quốc hận”. Tôi thực sự không hiểu họ hận vì cái gì? Họ hận vì bản thân của mình đã “trót” làm tay sai cho giặc? Hoặc ân hận vì đã “bắn giết” đồng bào mình trong chiến tranh? Hay là họ hận vì không có điều kiện giúp nhân dân Việt Nam phát triển kinh tế – xã hội?…rất nhiều câu hỏi đặt ra để nói về chữ “hận” của những kẻ tự coi mình là “công dân chân chính” nhưng lại “ẩn nấp” ở nước ngoài. Nếu như tất cả những câu hỏi trên phản ánh đúng sự thực rằng “những người này” đã ân hận về quá khứ và mong muốn sửa chữa lỗi lầm thì thật là tuyệt vời.
Nhưng! Sự thật lại không phải như vậy. Họ đang cảm thấy tiếc nuối về một chế độ “tay sai” đã cung cấp cho những kẻ phản quốc cuộc sống xa hoa – hưởng thụ trên xương máu của đồng bào đã bị sụp đổ. Họ luôn ca ngợi cho đó là chế độ tuyệt vời, mong muốn khôi phục để được tận hưởng nó. Thực chất, họ chính là những tay sai đắc lực của chính quyền cũ, họ chỉ biết hưởng thụ một cách ích kỷ. Để có cuộc sống xa hoa họ không ngần ngại làm tay sai cho giặc và đàn áp nhân dân trong biển máu, khiến cho nhân dân Việt Nam và đặc biệt là đồng bào miền Nam phải sống trong cảnh lầm than, nhiều gia đình tan nát, ly tán, hàng ngàn người bị tra tấn, đánh đập rất dã man…Không ít người đã cảm thấy rất ân hận vì những việc làm của mình trong quá khứ và họ luôn luôn bị ám ảnh, mong muốn được chuộc lại lỗi lầm của mình.
Sự kiện ngày 30/4/1975 non sông thu về một mối đã đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam. Đây chính là những điều cả dân tộc Việt Nam mong muốn và sẽ làm mọi cách để bảo vệ, gìn giữ và phát triển.
Ngược lại, sau ngày 30/4/1975 rất nhiều kẻ đã chạy trốn sang nước ngoài vì lo sợ phải trả giá cho những tội ác mình đã gây ra trong quá khứ với đồng bào Việt Nam. Trong số những kẻ đó, không ít người đã hối hận, quay trở lại quê hương để “chuộc lỗi” và đã được khoan hồng. Nhiều kiều bào khác không trực tiếp về nước nhưng họ đã có những hành động rất đẹp để bù đắp lại những tội ác đã gây ra trong quá khứ với nhân dân Việt Nam…Đó là những hành động rất ý nghĩa và đáng trân trọng.
Còn những kẻ ngày đêm vẫn “níu kéo” và muốn nhân danh đòi lại chính quyền của “cờ ba sọc” hiện nay chỉ chiếm số lượng không nhiều ở hải ngoại. Họ luôn thể hiện rõ bản chất của những kẻ phản quốc, chỉ biết nghĩ cho bản thân, luôn “mượn” vấn đề nhân quyền hoặc dân tộc tôn giáo để chống đối lại Đảng, Nhà nước Việt Nam. Những việc làm đê tiện của họ không thể đại diện cho đồng bào ta ở Hải ngoại, họ chỉ làm vấy bẩn hình ảnh của kiều bào Việt Nam ở Hải ngoại mà thôi.
Do đó, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự thật về những kẻ luôn coi ngày 30/4 là “ngày quốc hận”. Họ không phải ai khác chính là những kẻ phản quốc!
BÚT TRE. KIÊN TRUNG
Nguồn: Đấu trường Dân chủ
Nguồn: