Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật, đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Tuyên bố đó, đã thể hiện ý chí và khí phách của dân tộc Việt Nam “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đó cũng là lời hịch truyền gửi đến muôn đời con cháu mai sau với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Lịch sử đã lùi xa 75 năm, nhưng ý nghĩa và giá trị của Bản Tuyên ngôn Độc lập đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam chưa bao giờ xưa cũ. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta luôn coi “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”1. Với nhận thức đúng đắn về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, chính sách trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,… để xây dựng tiềm lực, thế trận cho sự nghiệp đó và đã giành được những thành tựu quan trọng. Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, chúng ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc… Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền, biển, đảo, vùng trời và giữ được hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”2. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) cũng nhấn mạnh thành tựu trong thực hiện mục tiêu bảo vệ Tổ quốc những năm qua, là “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước. Việc kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh ngày càng chặt chẽ; trong đó, chú trọng phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo”3. Chúng ta đã hoàn thành việc phân giới cắm mốc trên biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc; hoàn thành việc tăng dày, tôn tạo hệ thống mốc giới trên biên giới Việt Nam – Lào và đang đàm phán để hoàn thành phân giới, cắm mốc trên tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia. Đồng thời, hoàn thành việc phân định Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc, phân định các vùng biển chồng lấn với Thái Lan, tạo nên sự minh định, rõ ràng hơn về đường biên giới quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới trong tình hình mới. Mặc dù tiềm lực kinh tế của đất nước còn hạn chế, nhưng Đảng và Nhà nước ta, với sự đồng lòng của toàn dân đã quan tâm đầu tư xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân trên phạm vi cả nước; chăm lo xây dựng Quân đội vững mạnh toàn diện, đưa một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; thành lập mới lực lượng Cảnh sát biển và Kiểm ngư để nâng cao năng lực thực thi pháp luật trên biển; dành sự quan tâm đặc biệt đến xây dựng tiềm lực và thế trận ở quần đảo Trường Sa, nhà giàn DK1 để bảo vệ chủ quyền đất nước trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Tổ quốc.
Thời gian qua, trước những hoạt động bất chấp luật pháp quốc tế của thế lực nước ngoài cố tình vi phạm vùng biển chủ quyền nước ta, một lần nữa tinh thần của Tuyên ngôn Độc lập 1945 lại tỏa sáng, thể hiện rõ khát vọng và ý chí của toàn thể nhân dân Việt Nam kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Lực lượng Cảnh sát biển và Kiểm ngư Việt Nam đã anh dũng, kiên cường vật lộn với sóng gió, với những cuộc đâm va có chủ ý của tàu đối phương, kiên quyết đấu tranh buộc đối phương phải rút lực lượng ra khỏi vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Nhân dân cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài biểu thị lòng yêu nước bằng nhiều hình thức thiết thực, phong phú, sáng tạo để cùng lực lượng thực thi pháp luật trên thực địa bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta sử dụng nhiều biện pháp đấu tranh đòi nước ngoài chấm dứt sự vi phạm chủ quyền của Việt Nam; khẳng định “Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình, bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng”. Lập trường đó là sự nối tiếp, tỏa sáng ý chí kiên cường, bất khuất, quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt 20 triệu đồng bào tuyên bố trước toàn thế giới 75 năm về trước.
Hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển mới, với nhiều thuận lợi do thế và lực của ta đã được cải thiện nhiều so với trước, nhưng cũng đứng trước những thách thức gay gắt. “Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Tình hình Biển Đông tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường. Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân ta còn cam go, phức tạp, lâu dài”4. Trước tình hình đó, lời thề “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” lại vang vọng, thúc giục các thế hệ hôm nay phải nỗ lực nhiều hơn, để thực hiện trọn vẹn mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, bằng những hành động thiết thực.
Trước hết, phải đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị cho các tầng lớp nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và của toàn dân. Kiên trì tuyên truyền, làm rõ nội hàm của mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay không chỉ là “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ”, mà còn bao gồm cả “bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia – dân tộc”5. Đồng thời, làm rõ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế để sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống. Chủ động tuyên truyền những nội dung cốt lõi của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng bằng hình thức thích hợp.
Thứ hai, tích cực tuyên truyền nâng cao hiểu biết của người dân về chủ quyền, lãnh thổ đất nước; làm cho họ hiểu đúng vấn đề chủ quyền với nội dung toàn diện, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự “xâm lăng” về kinh tế, văn hóa của các thế lực bên ngoài cũng nguy hiểm không kém các cuộc xâm phạm lãnh thổ bằng các hành động quân sự. Mất văn hóa là mất tất cả; mất độc lập tự chủ về kinh tế thì trước sau cũng mất độc lập tự chủ về chính trị, kết cục là chủ quyền quốc gia cũng không còn. Vì vậy, trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta cần nắm vững phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” để xử lý các tình huống một cách tỉnh táo, bản lĩnh, vừa đảm bảo giữ được độc lập, chủ quyền, lãnh thổ, vừa giữ được môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước về mọi phương diện. Cùng với đó, cần nhận thức đúng việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc phải được thực hiện trên toàn bộ đường biên giới quốc gia. Theo đó, phải chăm lo xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân, thế trận biên phòng toàn dân trên phạm vi cả nước, trên toàn bộ tuyến biên giới quốc gia, nhằm xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với các nước láng giềng.
Thứ ba, tập trung xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Đó chính là một trong những nội dung quan trọng để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Bởi, bảo vệ Tổ quốc hiện nay không chỉ về phương diện tự nhiên – lãnh thổ, mà còn về phương diện chính trị – xã hội, nên việc xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện tốt nội dung này, chúng ta cần kiên trì đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Cùng với đó, cần chủ động tiến công, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, giữ vững sự ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, bảo vệ công cuộc đổi mới và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay phải trên cơ sở tích cực nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; kiên trì thực hiện chủ trương: “không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”6. Các sự kiện đã xảy ra trong lịch sử cho thấy: những hy vọng dựa vào thế lực nước ngoài nào đó để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc chỉ là ảo tưởng và cực kỳ nguy hiểm. Bởi vậy, cần nắm vững phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, có cách nhìn biện chứng về “đối tượng”, “đối tác” để có thể tranh thủ hợp tác khía cạnh “đồng thuận” ở mỗi “đối tượng”; kiên quyết đấu tranh với từng “đối tác” về những vấn đề còn mâu thuẫn, trên nguyên tắc bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, lấy giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước là lợi ích cao nhất.
Thứ năm, giữ vững phương châm “kiên quyết sử dụng mọi biện pháp phù hợp với luật pháp nước ta và luật pháp quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; nhưng đồng thời cũng phải quyết tâm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước”. Trong tình hình hiện nay, cần kiên trì đấu tranh bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, trực tiếp là Công ước 1982 về Luật biển của Liên hợp quốc; yêu cầu các bên tranh chấp phải thực hiện nghiêm chỉnh Tuyên bố ASEAN – Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), phấn đấu hoàn thành sớm việc xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử (COC). Đồng thời, sẵn sàng có các phương án tác chiến, khi tình huống buộc chúng ta phải tự vệ, để tỏ rõ mong muốn trước sau như một của chúng ta là hòa bình, hữu nghị, nhưng sẵn sàng hy sinh để giữ lấy chủ quyền, lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Muốn thế, bên cạnh việc hoàn thiện các chính sách hỗ trợ người dân bám biển, bám đảo để khẳng định chủ quyền, cần tiếp tục đầu tư xây dựng các lực lượng thực thi pháp luật trên biển và tăng cường đầu tư hiện đại hóa các lực lượng có chức năng tác chiến bảo vệ biển, đảo để sẵn sàng đối phó hiệu quả với các tình huống có thể xảy ra, không để Tổ quốc bị bất ngờ.
Thứ sáu, phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Chúng ta vừa phải ra sức tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, vừa phải coi việc phát huy nội lực luôn là nhân tố quyết định. Muốn vậy, cần chăm lo xây dựng để “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị – xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối thống nhất”7; nắm vững và hành động đúng chủ trương của Đảng coi “nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”.
75 năm đã trôi qua, nhưng Tuyên ngôn Độc lập 1945 vẫn mãi là kim chỉ nam cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam yêu dấu. Ý nghĩa và khí phách của dân tộc trong Bản Tuyên ngôn tiếp tục được các thế hệ người Việt Nam hiện thực hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.
NGUYỄN NGỌC HỒI (TCQPTD)
_________________
1 – ĐCSVN – Dự thảo các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, tháng 02/2020, tr. 28.
2 – ĐCSVN – Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 145 – 146.
3 – ĐCSVN – Dự thảo các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, tháng 02/2020, tr. 54.
4 – Sđd, tr. 10.
5 – Sđd, tr. 27.
6 – Bộ Quốc phòng – Quốc phòng Việt Nam 2019, H. 2019, tr. 25.
7 – ĐCSVN – Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI), Nxb CTQG, H. 2013, tr. 169.