Sức tàn phá
Đại dịch cúm 1918 khiến 20 đến 50 triệu người chết trên khắp thế giới trong hai năm 1918-1919, tương đương với 2,5 đến 5% dân số toàn cầu, theo thẩm định của Viện Pasteur. Tên gọi “cúm Tây Ban Nha” được đặt cho đại dịch 1918 vì lúc đó, Tây Ban Nha, không tham gia Thế Chiến I, là nước duy nhất công bố rộng rãi thông tin liên quan đến đại dịch.
Dịch COVID-19 cũng có tốc độ lây lan chóng mặt, gây tỉ lệ tử vong cao ở người cao tuổi và có bệnh nền. Tính đến ngày 7-5-2020, cả thế giới có hơn 3,8 triệu người nhiễm và hơn 264.000 người chết vì virus corona. Điểm chung trong cả hai đại dịch, tốc độ lây nhiễm nhanh là do di chuyển của con người và giao thông vận tải. Nơi nào phản ứng khẩn cấp sớm, cấm tập trung đông người, đóng cửa nhà hàng, trường học thì sớm hạn chế được thiệt hại.
Ví dụ, tại Mỹ, thành phố Philadelphia (bang Pennsylvania) vẫn duy trì cuộc diễu hành Liberty Loans Parade ngày 28-9-1918, kêu gọi Chính phủ Mỹ hỗ trợ đồng minh trong Thế Chiến I, trong khi thành phố Saint Louis (bang Missouri) hủy cuộc diễu hành tương tự. Với hơn 20.000 người tham gia, cuộc diễu hành ở Philadelphia dẫn đến sự bùng nổ số ca nhiễm cúm ở Mỹ và từ đó, được coi là cuộc tuần hành tang tóc nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Tỉ lệ tử vong ở Philadelphia cao gấp đôi so với Saint Louis. Sau đó, theo quan sát của các chuyên gia kinh tế, địa phương nào có “phản ứng sớm hơn 10 ngày trước khi dịch đến thì hoạt động công nghiệp tăng 5%” trong những năm sau đó.
Tốc độ lan nhanh của dịch COVID-19 cũng do nhiều cuộc tập hợp đông đảo: bữa tiệc khổng lồ với 40.000 gia đình tham gia hôm 18-1 tại Vũ Hán; các nhà thờ của giáo phái Tân Thiên Địa ở Hàn Quốc; một buổi lễ Hồi giáo vào tháng 2-2020 gần thủ đô Kuala Lumpur (Malaysia) với khoảng 16.000 người tham gia; nhà hàng và quán bar nổi tiếng Kitzloch tại thị trấn nghỉ dưỡng trượt tuyết Ischgl (bang Tyrol, Áo) được cho là nơi lây lan COVID-19 đến nhiều nước châu Âu; cuộc tập hợp tại nhà thờ La Porte Ouverte Chrétienne ở Mulhouse, một ổ dịch tại Pháp…
Trong đại dịch cúm Tây Ban Nha, do không có chính sách phong tỏa nên kinh tế không bị tác động nặng nề vì các biện pháp dịch tễ. Năm 2020 thì ngược lại, kinh tế toàn cầu gần như chững lại, đẩy cả thế giới vào giai đoạn suy thoái, trong khi có nguy cơ xảy ra đợt hai của dịch COVID-19. Trong dịch cúm cách đây một thế kỷ, đợt hai mới có sức tàn phá kinh hoàng về nhân mạng lẫn kinh tế.
Bác sĩ đánh động dịch đều chết vì bệnh
Vào mùa Xuân 1918, Loring Miner, một bác sĩ ở Kansas, cảnh báo về sự xuất hiện một loại bệnh lạ, rất nguy hiểm nhưng chính quyền không nghe ông. Một thế kỷ sau, bác sĩ Trung Quốc Lý Văn Lượng (Li Wenliang) cũng cảnh báo về loại virus mới, gây tử thương cao, nhưng cũng không được lắng nghe mà còn bị bắt giữ vì tung tin “thất thiệt” và “gây rối trật tự công cộng”. Cả hai bác sĩ đều có chung kết cục, qua đời vì chính căn bệnh mà họ đánh động.
Thiếu liên hệ giữa chính quyền và giới khoa học
Ngày 24-9-1918, George Clemenceau, lúc đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Pháp kiêm Bộ trưởng Bộ Chiến tranh, giận dữ trong một phiên họp nội các: “Một đợt dịch bệnh nghiêm trọng đang tràn qua Pháp và chúng ta lại không được thông tin”. Ba tuần sau, hội đồng khoa học trình báo cáo về nguồn gốc của dịch bệnh là do một loại vi khuẩn đã rõ hoặc “yếu tố đặc biệt chưa được biết”. Ngày 15-11-1918, tạp chí Le Concours médical chỉ trích “sự thất bại của cách phòng bệnh mang tính hành chính”.
Một thế kỷ sau, tuần san Pháp Le Point, trong số ra ngày 23-4-2020, cũng đăng trên trang nhất chỉ trích tương tự, nhưng với từ ngữ mạnh mẽ hơn “Phải chăng những kẻ quan liêu lấy mạng chúng ta?”.
Tin thất thiệt xuyên một thế kỷ
Tin đồn, tin thất thiệt thời nào cũng có, chỉ khác là trong thời đại hiện nay được lan truyền với tốc độ chóng mặt… nhờ công nghệ số và mạng xã hội. Virus corona chủng mới, dù có nguồn gốc thiên nhiên, nhưng đang bị nghi ngờ thoát ra từ phòng thí nghiệm ở Vũ Hán. Phía Trung Quốc gây hoang mang khi thắc mắc về một trung tâm nghiên cứu y tế quân sự Mỹ ở Fort Detrick bị đột ngột đóng cửa. Nhà tỉ phú Mỹ Bill Gates, rồi công nghệ 5G cũng bị nghi ngờ.
Trong đại dịch “cúm Tây Ban Nha”, Đức bị tình nghi. Những chiếc tầu ngầm U-boot nổi tiếng của Đức bị cho là gieo rắc virus ở các hải cảng của Mỹ. Ngoài ra, còn nhiều tin đồn khác, như Đức đã yêu cầu Công ty dược Bayer nhồi vi khuẩn vào các viên thuốc aspirine hoặc cấy mầm bệnh vào đồ hộp được bán ở Tây Ban Nha.
Khi chưa có thuốc đặc trị, con người vẫn có xu hướng tin vào những biện pháp “mầu nhiệm”. Năm 1918, cơ quan y tế của Hải quân Mỹ giải thích là “không khí và ánh nắng mặt trời giết mầm bệnh trong vài phút”.
Năm 2020, Tổng thống Mỹ Donald Trump nhắc đến một “tin đồn rất hay” là “nếu chúng ta ra ngoài nắng, điều đó có hiệu quả đối với virus”. Sau đó, ông yêu cầu các cơ quan liên quan tìm hiểu xem có thể “sử dụng nhiệt và ánh sáng để chữa trị”. Một ý tưởng khác, được Tổng thống Trump “gợi ý” trong buổi họp báo ngày 23-4, là tiêm nước khử trùng và đưa tia cực tím (UV) vào cơ thể để trị COVID-19 vì hình như hai loại này giết đến 99% vi khuẩn và virus.
Hai đại dịch, chưa có thần dược
Liệu thuốc ký ninh (Chloroquine) có phải là liệu pháp hiệu quả chống cúm? Tranh luận đã nổi lên ngay từ năm… 1918. Châu Âu kiệt quệ thoát khỏi Thế Chiến thứ nhất. Các bác sĩ không hình dung ra được quy mô của đại dịch sẽ phải đối mặt vì virus, nhỏ hơn hàng nghìn lần so với vi khuẩn, còn chưa thể quan sát được vì phải chờ đến những năm 1930, kính hiển vi mới được phát minh.
Vào tháng 10-1918, báo Le Journal giải thích: “Người ta cho chúng tôi những lời khuyên sau: Tránh tụ tập, uống rượu grog pha với rượu rhum; hãy dự trữ thuốc ký ninh”. Lúc đó, thị chính Paris mua 50.000 lít rượu rhum từ Bộ Cung ứng để cung cấp cho các hiệu thuốc. Báo Le Concours médical thì khẳng định “thuốc ký ninh được kê đơn thường xuyên. Ông Dubois thích dùng cây canh ki na hơn (Chinchona)”.
Năm 2020, giáo sư Didier Raoult, tại Marseille (Pháp), nổi tiếng hơn với biện pháp điều trị gây nhiều tranh cãi bằng thuốc Chloroquine. Trong khi đó, bác sĩ Mohammed Squalli, ở thành phố Melun (ngoại ô Paris), gợi ý bệnh nhân uống nước ngọt Schweppes, được làm từ cây canh ki na.
Công dụng của khẩu trang, chuyển đổi hoạt động sản xuất chống dịch
Khẩu trang cũng là một bất đồng giữa giới y khoa và chính quyền. Vào tháng 11-1918, cũng như vào tháng 4-2020, Viện Hàn lâm Y tế khuyến cáo đeo khẩu trang, nhưng chính quyền nhiều nơi lại không bắt buộc. Ví dụ, cách đây một thế kỷ, thành phố San Francisco đã bắt người dân đeo khẩu trang, nếu không sẽ bị “phạt từ 5 đến 100 đô la hoặc 10 ngày tù giam”. Hiện tại, người dân nhiều nước châu Á sẽ bị phạt nếu không đeo khẩu trang ở ngoài đường. Trong khi đó, nhiều nước phương Tây, phải mất một khoảng thời gian mới hiểu được công dụng của khẩu trang trong cộng đồng.
Một điểm chung khác trong cả hai đại dịch là tình trạng khan hiếm khẩu trang. Một thế kỷ sau, người dân lại lôi máy khâu, kim chỉ ra tự làm khẩu trang vải. Năm 1918 cũng như 2020, nhiều nhà máy đã chuyển đổi hoạt động để đáp ứng nhu cầu dịch tễ cấp bách. Ví dụ, năm 1918, tại Mỹ, một nhà máy sản xuất mặt nạ chống khí độc phục vụ chiến tranh chuyển sang sản xuất khẩu trang y tế. Năm 2020, nhà sản xuất ôtô General Motors của Mỹ sản xuất máy trợ thở. Nhiều thương hiệu thời trang lớn thế giới sản xuất khẩu trang và nước khử trùng…